NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG (Phần 33)
Bây
giờ tôi ngả người ra đằng sau, và trong cơn sảng khoái nhờ thuốc phiện, tôi
nghĩ: ít ra cô ta cũng không bỏ mình trước khi về nước, biết đâu đấy!
Ngày mai, hút xong vài điếu, có lẽ bằng cách này hay cách khác, tôi cũng
tìm ra cách ở lại.
Những công việc lặt vặt cụ thể hằng
ngày tiếp tục chính nhờ thế mà nhiều người khỏi phải mất trí. Nếu trong
một đợt ném bom không thể lúc nào cũng sợ hãi thì trong công việc hằng
ngày những cuộc gặp gỡ không định trước, những sự lo lắng cho công việc
chung, khiến người ta quên đi trong nhiều giờ liền nỗi khiếp sợ của cá nhân.
Cái ý nghĩ rằng tháng tư đang tới gần, tôi phải rời Ðông Dương và việc
không thể hình dung nổi một tương lai không có Phượng, đã bị khuây đi nhờ
một bức điện hằng ngày, những thông cáo báo chí Việt Nam và những khó khăn
gây ra bởi bệnh tật của người trợ tá của tôi. Anh này là người ấn Ðộ
mang tên Dominge (gia đình anh ta đi từ Goa qua Bombay rồi đến đây). Anh ta
thường thay mặt tôi theo dõi những hội nghị báo chí quan trọng nhất, anh ta
có một bộ tai rất thính, nắm bắt được những màu vẻ của công luận cũng
như những lời bàn tán riêng tư. Anh ta đưa những bức điện tôi viết ra bưu
điện hay phòng kiểm duyệt. Nhờ những bạn đồng hương buôn bán, nhất là ở
miền Bắc Hải Phòng, Hà Nội và Nam Ðịnh, anh ta có một mạng thông tin mật
riêng dành cho tôi, và tôi tin rằng anh ta còn biết rõ hơn Bộ Tổng Tư lệnh
Phá, về vị trí đóng quân của các tiểu đoàn Việt Minh tại châu thổ sông
Hồng. Bởi lẽ chúng tôi không bao giờ sử dụng những tin tức thu lượm được
trước khi chúng đựơc đưa thành những tin công khai và cũng không hề cho cơ
quan mật vụ Pháp biết. Dominge đã tranh thủ được lòng tin và tình bằng hữu
của nhiều phái viên Việt Minh ẩn náu ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Tuy anh ta có tên
Âu, nhưng lại là người á, điều này chắc đã là sự đóng góp tiện lợi
vào tình hình đó.
Tôi rất quý Dominge. Khi những người
khác trưng sự kiêu ngạo của mình ra như một thứ bệnh ngoài da, động khẽ
vào đã phản ứng, thì niềm tự kiêu của anh ta rất kín đáo, thu lại đến
mức nhỏ nhất với một con người bình thường. Trong sự tiếp xúc hằng ngày
với anh ta, người ta chỉ thấy sự dịu dàng, sự nhún nhường và sự tuyệt đối
tôn trọng sự thật. Có lẽ phải là vợ anh ta mới phát hiện ra được niềm tự
kiêu của anh ta. Có lẽ chân lý và khiêm tốn đi với nhau, còn tính kiêu căng
của chúng ta đã sinh ra bao nhiêu điều dối trá. Trong nghề nghiệp của tôi, ai
mà chẳng mắc tính hiếu thắng của người phóng viên, ý muốn được đưa
những bài có giá trị hơn những người khác?& nhưng chính Dominge là
người đã dạy tôi nên thản nhiên, giúp tôi chịu đựng khi có những bức
điện của tòa soạn, chất vấn tại sao không đưa tin về những chi tiết do một
người nào đó đã phát hiện mà tôi biết tỏng là bịa đặt.
Từ khi anh ta ốm, tôi mới hiểu tôi đã
phải mang ơn anh ta như thế nào. Anh ta lo tới cả việc xe tôi lúc nào cũng
đầy đủ xăng, nhưng không hề động chạm đến đời tư của tôi, dù bằng một
câu nói, một cái nhìn. Tôi tin rằng anh ta theo Thiên Chúa giáo như, nhưng
không có gì làm bằng, ngoài cái tên à nơi anh ra đời. Qua những câu chuyện
nói với nhau, tôi hiểu anh có thể tôn thờ Kristina, hoặc hàng năm đi hành
hương trong một cái gông bằng dây thép gai tới tận động Batu. Nhưng chính
vì anh ốm mà tôi thành bận bịu, do thế thoát khỏi sự lo lắng về việc riêng
tư của mình, bệnh của anh trở thành một điều tốt lành đối với tôi. Bây
giờ chính tôi phải đi dự những buổi họp báo tẻ ngắt, rồi tập tễnh ra khách
sạn Continetal để chuyện phiếm với những đồng nghiệp, nhưng tôi không sành
sỏi như Dominge trong việc phân biệt thực hư, bởi vậy đêm đến thường tôi
tới nhà anh để thảo luận về những tin tức tôi nhận được. Ðôi khi tôi gặp
một vài người bạn ấn Ðộ của anh, ngồi trên đầu chiếc giường sắt hẹp
trong căn nhà mà Dominge chỉ có một góc, nhà nhìn ra một phố nghèo khổ nhất
liền kề với đại lộ Galieni.
(Còn tiếp)