NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG (Phần 7)

        Chiến trường khi nhìn từ gác chuông nhà thờ xuống chỉ thấy vẻ ngoạn mục, bất động như một bức tranh toàn cảnh vẽ cuộc chiến tranh của người Boe trong một tờ báo tin ảnh London cũ. Một máy bay thả dù tiếp tế lương thực cho một đồn bị cô lập giữa vùng núi đá vôi, những ngọn núi kỳ lạ nơi biên giới. Trung Bộ, bị nắng mưa đục khoét, trông như những bọt đá chồng lên nhau và khi chiếc máy bay lộn lại lượn trên chỗ cũ, ta có cảm giác như nó đứng nguyên tại chỗ lơ lửng giữa đất với trời. Từ đồng bằng vọng lên tiếng súng cối, khói của đạn pháo thành những cụm đứng yên nom như những khối đá chắc nịch, trong khi khu chợ vẫn cháy, ngọn lửa như tôi đi dưới mặt trời. Hình bóng nhỏ xíu của những lính dù tiến hàng một dọc theo những con sông đào, từ trên cao nhìn xuống, cũng như đứng yên tại chỗ. Ngay vị linh mục đang đọc kinh ở một góc tháp cũng không hề thay đổi lối ngồi. Từ xa nhìn vào, chiến tranh thật sạch sẽ và được sắp xếp có ngăn nắp từng ly từng tý.

        Tôi từ Nam Ðịnh tới lúc trước rạng đông bằng một tàu đổ bộ. Chúng tôi không thể cập bến ở căn cứ thuỷ quân vì vướng quân địch, họ cô lập hoàn toàn thị trấn theo một đường bán kính 600 m, bởi vậy chiếc tàu phải cập vào cạnh khu chợ đang bốc cháy. Dưới ánh lửa, chúng tôi quả đã là một cái đích ngon ăn, nhưng không rõ vì một lẽ bí ẩn nào đó, không có viên đạn nào bắn tới cả. Mọi vật đều im lặng, chỉ trừ những quầy hàng cháy kêu răng rắc và đổ ụp xuống một cách nặng nề. Tôi nghe tiếng đổi chân của một người lính Senegal gác ở bờ sông.

        Tôi rất quen thuộc Phát Diệm những ngày trước khi có cuộc tấn công: cái đường phố độc nhất dài và hẹp, hai bên là những quán hàng bằng gỗ, cứ 100 m lại có một con lạch cắt ngang, một nhà thờ và một cây cầu. Tối đến chỉ có nến hay đèn dầu nhỏ (Phát Diệm không có điện trừ nơi sĩ quan Pháp ở) và đêm cũng như ngày, người ta sống ồn ào, đông lúc nhúc. Theo một kiểu Trung cổ kỳ lạ, dưới bóng và sự che chở của ông Hoàng Giám mục, đó là thị trấn sống động nhất của cả nước, nhưng ngày hôm đó, khi đổ bộ và đi về khu sĩ quan, tôi lại thấy đó là một thị trấn chết. Gạch vụn, mảnh kính, mùi sơn và vữa cháy, con đường phố dài không bóng làm tôi nhớ lại một đại lộ của London, vào buổi sáng sớm, khi có chuông báo an, người ta như chờ để thấy một cái biển báo: "Có bom chưa nổ!".

        Bề mặt của ngôi nhà sĩ quan bị một quả bom làm bay đi và bên kia phố, nhà cửa đều đổ nát. Khi đi cùng tôi từ thành phố Nam Ðịnh xuống đây, trung uý Pero đã cho tôi biết điều gì đã xảy ra. Ðó là một người còn trẻ nghiêm trang, hội viên Hội Tam điểm và tất cả những điều đó bị coi như là một tai vạ đối với sự mê tín của đồng loại. Vị giám mục Phát Diệm đã sang Âu châu và mang về dòng Ðức Mẹ Phatima: Dòng lập ra do Ðức Mẹ Ðồng trinh, mà người theo đạo Thiên Chúa tin là đã xuất hiện trước một đám nhi đồng ở Bồ Ðào Nha. Ðến lượt mình Giám mục đã cho xây một cái động thờ Ðức Phatima trong khu vực nhà thờ và hàng năm, người ta tổ chức lễ rước Ðức mẹ. Quan hệ giữa ông ta và viên đại tá chỉ huy quân Pháp - Việt trở nên căng thẳng khi các nhà đương chức đã giải tán đội vệ binh của Giám mục. Năm nay, viên đại tá là người có đôi chút thiện cảm với giám mục vì cả hai đều đặt tổ quốc của họ cao hơn đạo - đã có một cử chỉ thân thiện và đi hàng đầu trong đám rước cùng với những phụ tá cao cấp. Chưa bao giờ từng có một số người đông như vậy đã tập trung ở Phát Diệm để rước thành Phatima. Cả đến những người theo đạo Phật, họ chiếm non nửa số dân ở đây cũng không thể thờ ơ với cảnh tưng bừng đó, và những người chẳng lương cũng chẳng giáo, cũng đinh ninh rằng theo một lẽ bí hiểm, tất cả những lá cờ, bình hương, bình bánh thánh bằng vàng đó có thể đẩy lui chiến sự ra xa gia đình họ. Tất cả những cái gì còn sót lại của đạo vệ binh của Giám mục, đội kèn đồng dẫn lộ cho đám rước và những sĩ quan Pháp, đầy vẻ mộ đạo theo lệnh của đại tá, đi tiếp theo như những lễ sinh. Ðám rước qua cửa lớn vào trong sân diễu qua bức tượng Thánh Tâm màu trắng dựng trên một hòn đảo giữa cái hồ nhỏ phía trước nhà thờ, dưới tháp chuông có đôi cánh cong theo kiểu á châu, rồi vào trong cái nhà thờ kiểu kỳ lạ làm bằng gỗ chạm, với những chiếc cột cái nguyên cả cây gỗ cùng với bàn thờ Chúa sơn son rực rỡ (nom giống bàn thờ Phật hơn là bàn thờ Chúa. Người ta ùn ùn kéo về Phát Diệm, từ tất cả các làng cách nhau bởi những con sông đào, từ cánh đồng thấp như đồng nước Hà Lan, chỉ khác ở chỗ những cây mạ xanh hay những vạt lúa chín vàng óng đã thay cho những cây hoa tuy-líp và những nhà thờ thay cho các cối xay gió.

        Không ai để ý đến những người của Việt Minh đã trà trộn vào đám rước, đến tiểu đoàn quân chủ lực của cộng sản vượt qua các đèo của dãy núi đã vôi đột nhập vào đồng bằng, dưới mắt của những tốp quân Pháp bất lực gác ở các đồn tiền tiêu đặt trên núi. Ðêm hôm đó, lính trinh sát của Việt Minh đã đánh vào Phát Diệm.

        Sau bốn ngày đánh nhau, nhờ có lính dù giúp sức, quân địch chỉ bị đẩy ra xa non một cây số và đang bao vây thị trấn. Ðó là một chiến bại mà những nhà báo không được phép nói tới, không một bức điện nào được đánh đi, vì báo chí chỉ được đăng tin chiến thắng. Những nhà cầm quyền chắc đã cản không cho rời Hà Nội, nếu họ biết ý đồ của tôi, nhưng người ta càng đi xa đại bản doanh thì sự kiểm soát càng lỏng lẻo và khi tới tầm súng địch, người ta sẽ được đón nồng nhiệt. Ðiều đe doạ đối với Bộ Tổng Tham mưu ở Hà Nội và là sự phiền hà cho viên chỉ huy khu vực Nam Ðịnh, đối với viên thiếu uý đang lâm trận lại là một câu chuyện vui, một sự giải trí, một bằng chứng về sự quan tâm của thế giới bên ngoài, nhờ có nó mà trong vài ba giờ quý báu, ông ta có thể ít nhiều quan trọng hoá vai trò của mình và dọi một ánh sáng anh hùng giả tạo vào những người bị thương vong của ông.

        Vị linh mục gấp cuốn sách kinh lại và nói: "Thế, xong rồi". Ông là người Âu, nhưng không phải là người Pháp, vị Giám mục không đời nào chịu để có một linh mục Pháp trong địa phận của mình. Linh mục nói thêm như để tạ lỗi:

        - Xin hiểu cho là tôi phải leo lên đây để được yên thân một chút và không bị quấy bởi những con người khốn khổ kia.

        Tiếng súng cối hình như gần lại, hoặc bây giờ phía địch mới chịu trả lời. Ðiều khó khăn kỳ lạ là tìm ra địch: Có mười hai mặt trận nhỏ hẹp và không biết bao nhiêu là chỗ địch có thể phục kích giữa những con lạch, những trang trại và cánh đồng.

        Thẳng ngay phía dưới chúng tôi là toàn bộ dân Phát Diệm, đứng, ngồi, nằm: lương, giáo, vô thần, họ đã gói ghém những của cải quý báu nhất của họ - cái bếp, cái đèn, cái giường, cái tủ, vài chiếc chiếu, một bức tranh thánh - và vào trú trong địa phận Nhà Chung. Ðêm xuống trời miền Bắc rét căm căm, nhà thờ đã chật ních người, không có nơi trú ẩn nữa, ngay trên cầu thang đi lên gác treo chuông, tất của các bậc đều có người. Trong khi đó người ta vẫn réo tới các cửa và bước vào, mang theo những đứa con nhỏ và đồ đạc. Họ tin rằng dù theo bất kỳ đạo giáo nào, ở đây họ sẽ được an toàn. Trong khi chúng tôi đang nhìn cảnh tượng đó, một người trẻ tuổi mặc quân phục Việt và mang theo súng lách vào. Một linh mục ngăn anh ta lại và lấy đi khẩu súng. Linh mục đứng cạnh tôi nói, như để giải thích:

        - Chúng tôi trung lập. Ðây là đất của Chúa.

        Tôi suy nghĩ: Chúa có trên mảnh đất của Người một số dân sợ sệt, đói rét, khốn khổ đến kỳ lạ vậy thay! Một tu sĩ đã nói với tôi: "Không biết lấy gì để nuôi sống tất cả bao nhiêu người này". Người ta tưởng rằng một vị vương giả phải làm nhiệm vụ trọn vẹn hơn là thế này. Nhưng tôi lại nghĩ, đi tới đâu người ta cũng gặp cảnh tương tự: không phải những ông vua hùng mạnh nhất có thể làm cho dân mình sung sướng nhất.

        Dưới sân, những mẹt hàng đã được bày ra.

        - Trông như một phiên chợ khổng lồ - tôi nói - Nhưng không tìm ra được một vẻ mặt tươi cười.

        - Ðêm qua họ bị rét đến chết - linh mục nói - Chúng tôi đã phải đóng hết cửa tu viện lại, sợ họ ồ vào.

        - Trong tu viện chắc ấm lắm?, tôi hỏi.

        - Chắc ấm lắm. Nhưng chúng tôi không đủ chỗ để chừa được một phần mười số người hiện có. Phải - ông ta nói tiếp - Tôi hiểu ông định nói gì. Nhưng cũng cần để cho dăm ba người trong chúng tôi còn được khoẻ mạnh. ở Phát Diệm chỉ có một bệnh viện mà y tá đều là những cô nữ tu cả.

        - Còn người làm phẫu thuật?

        - Không, tôi tới để tìm phương hướng đi tiếp.

        - Tôi hỏi như vậy vì hôm qua có một người lên tận đây. Ông ta xin xưng tội. Những điều nhìn thấy dọc con sông đào đã làm ông ta sợ hãi. Chúng ta cũng chẳng nên trách ông ta.

        - Tình hình chỗ đó có gì không hay?

        - Quân dù đã dồn địch vào giữa hai lưới đạn. Những người đáng thương! Tôi tin rằng ông cũng có cảm giác đó.

        - Tôi không phải là người thực hành đạo Thiên Chúa. Tôi cũng không tin rằng ông có thể coi tôi là người tin ở Chúa.

        - Sự sợ hãi đã gây ra tác động kỳ lạ với con người.

        - Ðối với tôi, nó lại khác. Dù tôi có thể mơ hồ tin ở một Ðức Chúa nào đó, tôi vẫn sẽ không thể thích xưng tội. Quỳ xuống trong một ngăn giống như một cái hộp. Tự lột trần truồng mình ra trước một con người khác! Xin Cha thứ lỗi cho, tôi thấy việc đó có vẻ yếu đuối& một sự thiếu dũng khí.

        Ông linh mục nói bằng một giọng nhẹ nhàng: Tôi chắc ông là một người lương thiện và chẳng bao giờ làm điều gì đáng hối hận.

        Tôi đưa mắt nhìn những nhà thờ xếp hàng ra tận biển cách đều đặn dọc những con sông đào. Một tia lửa loé ra từ tháp chuông thứ hai.

        - Các nhà thờ của các ông cũng không phải là trung lập cả, như ông nói.

        - Chúng tôi biết làm thế nào được - linh mục đáp - Người Pháp chỉ chấp nhận là không vượt qua hàng rào của Nhà thờ Lớn thôi. Chúng tôi không thể đòi hỏi hơn được. Nơi ông đang nhìn là một đồn của quân lê dương.

        - Tôi phải đi đây. Xin chào Cha.

        - Xin chào và chúc ông may mắn, ông hãy đề phòng những tay súng lẻ đấy.

(Còn tiếp)