NGƯỜI MỸ TRẦM LẶNG (Phần 8)
Tôi phải chen lách mãi mới thoát khỏi đám đông ra khỏi nhà thờ, đi ven
phía trước cái hồ và pho tượng màu trắng đứng giơ tay nom như đã được
điêu khắc bằng một khối đường và ra được tới cái phố dài. Tôi có thể
nhìn tới hơn nửa dặm về cả hai chiều và thấy ngoài tôi, người lính đội
mũ có ngụy trang đi từ phía dưới phố lên, hai khẩu súng Sten sẵn sàng nhả
đạn. Tôi nói hai người sống vì có một xác chết nằm ngay ở cửa, đầu gục
xuống đường. Lọt vào tai tôi chỉ có tiếng nhặng vo ve và tiếng phlích phlắc
của bước chân những người lính đi xa dần. Tôi ngoảnh mặt, bước nhanh qua
xác chết. Vài phút sau, quay lại phía sau, tôi thấy chỉ còn tôi và cái bóng,
và tai tôi không nghe thấy gì khác ngoài những tiếng động tự tôi gây ra.
Tôi có cảm giác rằng mình là cái bia trên trường bắn. Tôi chợt nghĩ nếu
có sự gì xảy ra với mình trong cái phố này, thì hàng giờ sau người ta mới
biết và những con nhặng có đủ thì giờ để bu tới.
Khi đã vượt qua được hai con kênh, tôi
rẽ vào con đường dẫn tới một nhà thờ. Một chục người mặc áo dù rằn ri,
ngồi trên đất, trong khi hai sĩ quan đang tra cứu tấm bản đồ. Không có ai
lưu ý tới tôi khi tôi nhập bọn. Một người lưng đeo chiếc máy bộ đàm có
cần ăng ten dài, nói:
- Bây giờ có thể tới đó được rồi.
Tôi dùng thứ tiếng Pháp tồi hỏi xem có thể đi theo họ không. Một trong những
điều thuận lợi trong cuộc chiến tranh này là bộ mặt của người Âu tự nó là
một tấm hộ chiếu để tới chiến trường, người ta không thể nghi một người
Âu là kẻ làm tay chân cho địch.
- Anh làm gì? - viên trung uý hỏi.
- Tôi viết những bài báo về chiến tranh.
- Người Mỹ à?
- Không, người Anh.
- Ðây chỉ là một cuộc hành quân nhỏ - hắn nói - nhưng nếu anh muốn đi cùng
chúng tôi&
Anh ta định lấy mũ của mình đưa cho tôi.
- Không - tôi nói - cái này là để cho những người đánh nhau.
- Tuỳ anh.
Chúng tôi đi vòng sau nhà thờ, theo hàng dọc, trung úy đi đầu và dừng lại
một lát khi tới bờ một con sông đào, để người lính mang máy bộ đàm có
thể liên lạc với hai tốp đi tuần ở hai bên. Ðạn súng cối bay qua đầu chúng
tôi để nổ xa ngoài tầm mắt. Chúng tôi đã lấy thêm người khi đi gần nhà
thờ và quân số đã lên non ba mươi người. Viên trung uý khẽ giảng cho tôi,
ngón tay chỉ trên bản đồ:
- Có người báo là có ba trăm địch trong làng này. Chúng tập hợp để phục
kích đêm nay. Chúng tôi không rõ thực hư. Chưa có ai phát hiện ra họ cả.
- Cách đây bao xa?
- Ba trăm mét.
Một vài tiếng được truyền vào bộ máy vô tuyến điện, rồi chúng tôi tiếp
tục cuộc hành quân một cách lặng lẽ. Bên phải là con sông đào thẳng tắp,
bên trái là những lùm cây là là mặt đất, đến những thửa ruộng, rồi lại
đến những lùm cây. "Ðường thông rồi", viên trung uý vừa nói thì
thào, vừa khoát tay làm hiệu khi chúng tôi tiếp tục đi. Bốn mươi mét sau là
một con lạch, với cái gì còn lại của một cây cầu (một tấm ván không có tay
vịn), khiến chúng tôi phải dừng lại. Viên trung uý ra hiệu cho mọi người dàn
ra và chúng tôi vào vị trí, ngồi xổm trước mảnh đất lạ dải ra bên kia
cầu. Mọi người nhìn xuống nước, rồi như nhận được một mệnh lệnh, nhất
tề quay mặt đi. Lúc đầu tôi không nhìn thấy cái gì họ đã thấy, nhưng khi
đã thấy thì óc tôi, không hiểu tại sao lại nhớ tới những ngày đã qua, tới
tận khách sạn Sale, tới những anh con trai mặc giả gái, tới những binh sĩ trẻ
huýt sáo tới Pyle khi y nói: "Không hợp với cô ta".
Khúc sông đầy những tử thi. Bây giờ tôi lại nhớ như hình ảnh của món ra-gu
nấu với quá nhiều thịt. Những xác người đè lên nhau, một cái đầu, màu
xám như da con hải cẩu, vô danh như một tù nhân tóc bị cạo trọc, nhoi khỏi
mặt nước như một cái phao. Không trông thấy máu: Tôi đoán rằng dòng máu
đã trôi hết từ lâu. Tôi không thể ước lượng được con số những người
chết đó, chắc họ đã bị lọt bất ngờ vào giữa hai làn đạn trong khi tìm
cách rút và tôi đoán rằng mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ: ăn miếng
trả miếng! Tôi cũng như mọi người, quay mặt đi, chúng tôi không muốn được
nhắc tới sự vô nghĩa của cuộc đời và cái chết đến nhanh chóng, đơn giản,
vô danh như thế. Tuy lý trí của tôi khát vọng cái chết, nhưng với tư cách
là một thực thể, tôi lại sợ cái chết như một cô trinh nữ sợ hãi sự giao
phối. Tôi ao ước được báo trước khi cái chết sắp tới để có thì giờ
chuẩn bị. Chuẩn bị cho cái gì? Tôi cũng không hiểu và cũng không biết chuẩn
bị như thế nào, ngoài việc soát lại những thứ mà tôi sắp lìa bỏ.
Viên trung uý ngồi cạnh người lính mang máy bộ đàm và chăm chú nhìn vào
khoảng đất ở giữa hai bàn chân mình. Chiếc máy lẹt xẹt truyền tới những
huấn lệnh và viên sĩ quan đứng lên với một cái thở dài như vừa bị đánh
thức. Giữa bọn họ có một tình bằng hữu kỳ lạ thể hiện qua các cử chỉ,
người ta cảm thấy họ bình đẳng với nhau, khi họ bận rộn về một công việc
đã cùng làm với nhau không biết bao nhiêu lần rồi. Không có ai cần người
khác nhắc mình phải làm việc gì.
Hai người đi về phía tấm ván và định vượt qua, nhưng bị mất thăng bằng
bởi trọng lượng võ khí mang theo, nhiều khi họ phải ngồi như cưỡi ngựa và
nhích lên dần từng phân một. Một người lính tìm thấy một con đò giấu trong
lùm cây về phía hạ lưu và đẩy đến nơi viên trung uý đứng. Sáu người
chúng tôi xuống và người lính chống sào sang bờ bên kia, nhưng một lớp xác
người đông đặc giữ chặt đò lại. Người lính lấy con sào đẩy đi, con sào
ngập trong đám bùn đất thịt người đó, một cái xác bỗng nổi lên nằm dài
dọc theo thuyền, như một người đang phơi nắng trên bãi biển. Rồi đò thoát
ranh và một lần nữa chúng tôi leo lên bờ mà không ngoái cổ lại nhìn. Không
một phát súng nổ, chúng tôi sống cả, cái chết đã lùi lại, có lẽ tới con
sông sau. Tôi nghe thấy ai đó nói phía sau với một giọng nghiêm trang:
"Tạ ơn Chúa". Không kể viên trung uý, đa số những người khác đều
là người Ðức.
Ðến đây là những căn nhà trong một trang trại, viên trung uý là người vào
trước tiên, hai tay ép vào tường chúng tôi lần lượt theo sau, Rồi (một lần
nữa không cần phải có lệnh) mọi người triển khai ra khắp khu trại. Tất cả
sự sống ở đây đã biến mất: Một con gà cũng không còn. Nhưng trên tường
của căn phòng, chắc đã là phòng khách, vẫn treo hai bức tranh in một cách
xấu xí ảnh Thánh Tâm và ảnh Ðức Mẹ với Chúa Hài đồng, nó đem lại cho
những ngôi nhà lúp xúp xiêu vẹo này một cái vẻ phương Tây. Người ta hiểu
những người ở đây tin ở gì, dù không chia sẻ niềm tin của họ: Họ là những
con người, không phải là những xác chết xám xịt đã mất hết cả máu.
Trong chiến tranh, người ta đã để mất đi không biết bao giờ rỗi, để mong
đợi một người nào đó. Khi không biết còn sống được bao lâu nữa, người
ta có ý nghĩ rằng chẳng có việc gì đáng làm cả, kể cả việc suy nghĩ cho
có hệ thống. Thực hiện một hành động đã quá quen thuộc, những người lính
gác tản ra xa. Kể từ phút này, tất cả cái gì động đậy ở phía trước mặt
là thù địch. Viên trung uý tính toạ độ trên bản đồ và dùng máy vô tuyến
báo cáo về vị trí của chúng tôi. Sự im lặng của buổi giữa trưa bao trùm
lên tất cả: ngay đến súng cối cũng im tiếng và không trung vắng tiếng phi
cơ. Một người cầm một cành cây nhỏ chọc bới đám bùn của sân gà vịt.
Trong chốc lát, có thể nói chiến tranh đã bỏ quên chúng tôi. Tôi hy vọng
rằng Phượng đã đưa quần áo của tôi đi nhuộm. Một cơn gió lạnh thổi bay
những cọng rơm trên sân và với vẻ kín đáo, một người ra sau nhà chứa thóc
để đại tiện. Tôi cố gắng nhớ xem đã trả ông lãnh sự nước Anh ở Hà Nội
tiền chai Whisky ông nhượng lại chưa.
Hai phát súng nổ ở phía trước và tôi nghĩ: thế là đụng nhau rồi! Bắt đầu
rồi! Ðó là tín hiệu mà tôi đang mong đợi. Tôi chờ đón với một niềm vui
sâu sắc cái điều không thể thay đổi được.
Nhưng không có điều gì xảy ra cả. Một lần nữa, tôi đã "cường điệu
sự chuẩn bị đối phó với tình huống". Chỉ sau vài phút sốt ruột chờ
đợi, một người lính gác vào báo cáo với trung uý. Tôi nghe thấy nói:
"Hai thường dân".
- Ra xem nào! - viên trung uý nói với tôi.
Theo sau người lính, chúng tôi phải lần từng bước đi men theo một bờ ruộng
lầy lội đầy cỏ mọc. Hai mươi mét cách khu trại, trong một cái hố chật hẹp,
chúng tôi đã nom thấy cái mà chúng tôi đi kiếm: Một người đàn bà và một
đứa trẻ con. Nhưng rõ ràng là họ đã chết tôi rồi, một cục máu nhỏ nằm
gọn giữa trán người đàn bà, đứa bé nom như đang ngủ. Nó chừng 6 tuổi và
nằm co hai chân khẳng khiu lên sát cằm như cái bào thai trong dạ mẹ.
- Tội nghiệp cho họ - viên trung uý nói.
Hắn cúi xuống, lật đứa bé lên. Ðứa nhỏ đeo nơi cổ một hình Chúa và tôi
bụng bảo dạ: Cái bùa này không công hiệu. Dưới mình nó có một mẩu bánh
ăn dở. Tôi tự nghĩ: Sao mà tôi căm thù chiến tranh làm vậy.
- Anh xem đã đủ chưa? - viên thiếu uý hỏi tôi với một vẻ dữ tợn, gần như
tôi là người chịu trách nhiệm về những cái chết đó.
Có lẽ dưới con mắt người lính, người dân thường là người đã dùng anh
để giết người, là người đã trút vào trong phong bì cho anh cái tội sát
nhân cùng với đồng lương để rồi phủi tay. Chúng tôi trở lại khu trại và
như lúc nãy, chúng tôi ngồi im lặng trên đống rơm, để tránh ngọn gió, cái
ngọn đó giống một con thú, như biết rằng đêm tối sắp đổ xuống. Ngay lúc
nãy đã chọc đám đất này lại đi tiêu, và người đã đi tiêu này lại
chọc đám đất. Tôi nghĩ vào lúc yên tĩnh thế này, lúc những lính gác đã
về vị trí của mình, thì hai người đã chết kia như có thể mò ra khỏi hố
của họ. Tôi tự hỏi không rõ nằm ở đó đã lâu chưa, với mẩu bánh đã khô
cứng. Cái trại này chắc là nhà của họ.
Chiếc máy vô tuyến lại hoạt động.
- Họ sắp ném bom vào làng - người trung uý nói với một vẻ mệt mỏi - các
đội tuần tra được gọi trở về.
Chúng tôi đứng lên và trở về nơi xuất phát, lại phải lượn giữa những xác
chết, đi vòng qua nhà thờ theo hàng một. Chúng tôi chưa đi được xa là mấy,
tuy nhiên cuộc hành quân mà kết quả chỉ là thấy hai xác chết hình như dài
lắm. Bây giờ máy bay đã cất cánh và phía sau chúng tôi, việc ném bom đã
bắt đầu.
Ðêm đã xuống khi tôi tới khu vực dành cho các sĩ quan, nơi tôi sẽ ngủ đêm
nay. Trời rét tới một độ trên không và nguồn nhiệt duy nhất để chống lạnh
là khu chợ đang cháy. Những tấm rèm vải treo sau các cánh cửa đã bị vênh
và bức tường bị bazoka bắn thủng không đủ sức ngăn các luồng gió. Máy
phát điện không chạy và để nến khỏi tắt, chúng tôi phải đem sách và hòm
ra dựng thành tường chắn. Tôi đánh bài với một viên đại uý mang tên Soren,
ăn thua bằng tiền Việt. Không thể ăn thua nhau bằng rượu vì tôi là khách
của quán ăn sĩ quan. Vận đỏ đen lần lượt tới mỗi bên một cách đều đều,
buồn tẻ. Tôi mở chai Whisky ra để uống cho ấm bụng và mọi người xúm quanh
chúng tôi.
- Ðâu là cốc Whisky đầu tiên tôi uống từ rời Pháp - viên đại tá nói.
Một viên trung uý đi đốc gác về, nói:
- Có lẽ đêm nay yên tĩnh.
- Họ không tấn công trước bốn giờ sáng đâu! - đại tá nói - anh có súng
ngắn không?
- Không.
- Tôi sẽ kiếm cho anh một khẩu. Nên khôn ngoan nhét nó ở dưới gối (ông ta
lịch sự nói tiếp). Tôi ngại rằng sẽ thấy chiếc nệm của chúng tôi rắn quá
đấy. Và tới ba giờ rưỡi thì súng cối sẽ tiếp tục bắn. Chúng tôi thử đập
tan mọi cố gắng tập trung quân của địch.
- Anh cho rằng chiến sự còn kéo dài bao lâu nữa?
- Ai biết được. Chúng tôi không thể rút thêm quân từ Nam Ðịnh về tiếp ứng
nữa. Ðây chỉ là một mũi đánh nhử. Nếu với số quân có trong tay, chúng tôi
cầm cự được hai hôm, thì có thể coi như là một trận đánh thắng lợi rồi.
Gió lại lồng lộn quanh nhà tìm chỗ lọt vào. Tấm rèm vải lại phồng lên (tôi
chợt nghĩ đến cảnh Polonius bị đâm chết từ sau một bức thảm treo tường) và
ngọn nến lung lay. Những bóng người có dáng điệu của các nhân vật trên sân
khấu. Người ta có thể cho chúng tôi là một đám hát rong tụ tập trong một
kho thóc.
- Các đồn của anh cầm cự tốt chứ?
- Tốt theo những tin chúng tôi biết (ông ta nói tiếp, biểu lộ sự vô cùng mệt
mỏi). Xin hiểu cho rằng đây là một trận đánh chẳng có tầm quan trọng gì so
với những cái đang diễn ra cách đây một trăm mét, ở Hoà Bình. ở đấy mới
đánh nhau thật sự.
- Anh uống thêm một cốc chứ?
- Thôi, cám ơn. Whisky Anh quốc của ông thật tuyệt vời, nhưng cần để dành
một chút đến đêm, nhỡ có khi cần. Xin lỗi, tôi nghĩ tôi phải đi ngủ một
giấc. Ðến khi súng cối nổ thì chẳng ngủ được nữa đâu. Ðại uý Soren, xin
lo cho ông Fowler có đủ các thứ cần thiết: nến, diêm và một khẩu súng ngắn.
Rồi ông đi vào phòng mình.
Ðấy là hiệu lệnh và chúng tôi ai nấy đều rút lui. Người ta trải cho chúng
tôi một cái nệm trong một kho nhỏ và xếp quanh tôi những chiếc hòm rỗng. Tôi
chỉ thức được một lát: Nền đất cứng lại làm tôi dễ chịu. Tôi tự hỏi,
không một chút ghen tuông, rằng chẳng hiểu Phượng đêm nay có ngủ ở nhà
không? Hình như trong một đêm như đêm nay, việc làm chủ một tấm thân chỉ
là một điều nhỏ bé& có lẽ vì trong ngày tôi đã nhìn thấy người tấm
thân không còn là của ai nữa, ngay cả của chính mình. Tất cả chúng tôi đều
là những con số được tính trong món tổng chi phí. Khi ngủ, tôi mê thấy Pyle.
Hắn khiêu vũ một mình trên một sân khấu của nhà hát, cứng nhắc, hai tay
hướng về một bạn nhảy vô hình. Tôi thì ngồi trên một cái ghế đẩu giống
ghế dùng cho người đánh piano và tôi nhìn theo hắn, tay cầm khẩu súng ngắn
sẵn sàng nhả đạn nếu ai tới quấy phá hắn. Trên một bản chương trình treo
bên cạnh sân khấu, như là bản giới thiệu tiết mục của một nhà hát ca vũ
nhạc Anh Cát lợi, người ta thấy đề: "Ðiệu khiêu vũ của yêu đương
dành cho người lớn". Có ai động đậy ở phía trong sân khấu, tôi bấm cò
và bừng tỉnh dậy.
Tôi thấy tay đang nắm khẩu súng ngắn người ta đã cho mượn và một người
đang đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm một cây nến. Hắn đội một chiếc mũ sắt,
bóng chiếc mũ phủ lên mắt hắn, và tôi chỉ nhận ra chính đó là Pyle khi hắn
lên tiếng.
- Tôi thật lấy làm phiền vì đã làm anh thức giấ, - hắn nói một cách rụt
rè - Người ta bảo tôi có thể vào đây ngủ.
Tôi chưa tỉnh hẳn.
- Anh kiếm được cái mũ ở đâu đấy? - tôi hỏi.
- à, một người nào đó cho tôi mượn - hắn đáp một cách mơ hồ.
Hắn kéo lê vào trong phòng một chiếc túi dết của lính và lôi từ đó ra một
chiếc chăn túi có lót len.
- Anh được trang bị cẩn thận nhỉ? - tôi vừa nói, vừa cố hiểu xem vì sao hắn
và tôi lại cùng ở đây.
- Ðấy là trang bị tiêu chuẩn cho những đội cứu trợ về y tế của chúng tôi.
Họ cho tôi mượn một bộ từ Hà Nội .
Hắn lôi tiếp ra một bình thuỷ, một đèn cồn, một bàn chải chải tóc, một bộ
đồ cạo râu và một hộp đựng khẩu phần thức ăn. Tôi nhìn đồng hồ. Ðã
gần ba giờ sáng.
Pyle tiếp tục lôi đồ trong túi ra. Hắn dùng các hộp làm một cái vòm, trên
đó hắn để chiêc gương và các đồ lỉnh kỉnh khác.
- Chắc gì anh đã tìm được nước! - tôi nói.
- ồ, tôi có đủ dùng cho đến sáng mai trong chiếc bình thuỷ kia.
Hắn ngồi trên chiếc chăn và bắt đầu cởi giày.
- Anh làm thế quái nào mà tới tận đây được? - tôi hỏi.
- Người ta cho tôi đi Nam Ðịnh để kiểm tra công việc của các đội phòng
đau mắt hột của chúng tôi. Sau đó, tôi thuê một chiếc thuyền.
- Một chiếc thuyền à?
- ồ, một chiếc mảng, tôi cũng không hiểu gọi nó bằng tên gì. Thực ra tôi
đã mua chiếc mảng đó. Không đắt lắm!
- Có, nhưng tôi không tới. Tôi đã tự kiềm chế - hắn nói tiếp một cách âu
sầu - thế thì tệ quá! Tôi sẽ là một kẻ đáng tởm, nhưng xin anh tin cho tôi,
nếu hai anh chị đã là vợ chồng với nhau& không bao giờ tôi tìm cách xen
vào giữa một cặp vợ chồng.
- Xem ra anh có thể cứ xen vào đấy - tôi nói.
Lần đầu, hắn làm tôi bực mình.
- Fowler - hắn nói - tôi không rõ tên thánh của anh là gì?
- Là Thomas, anh hỏi để làm gì?
- Anh cho phép tôi gọi anh là anh Tom? Tôi nghĩ như vậy chúng mình gần với
nhau hơn. Tôi muốn nói khi hai người cùng yêu một người đàn bà.
- Bây giờ anh định làm gì?
Với vẻ phấn hứng, hắn đứng lên, tựa lưng vào những chiếc hòm. Hắn nói:
- Bây giờ, khi anh đã rõ thì mọi việc đối với tôi trở nên khác hẳn. Tôi
sẽ xin cưới cô ấy làm vợ, anh Tom ạ.
- Tôi muốn anh gọi tôi là Thomas.
- Cô ấy sẽ phải chọn giữa anh và tôi, anh Thomas ạ. Một cách đơn giản. Một
cách đúng với lẽ phải.
Hắn ta bắt đầu cởi quần áo ngoài và tôi nghĩ là hắn có ưu thế của tuổi
trẻ. Thật đáng buồn khi người ta phải thèm khát được như Pyle.
- Tôi không thể cưới Phượng làm vợ được - tôi nói - tôi có một bà vợ ở
nước Anh. Không bao giờ bà ấy chịu ly hôn. Bà ấy là thành viên của Thượng
Giáo Hội, anh hiểu thế là thế nào rồi chứ?
- Tôi rất lấy làm tiếc cho anh, anh Thomas. Này, tên thánh của tôi là Andon,
nếu anh muốn&
- Tôi ưng gọi tên chính của anh thôi - tôi đáp - tôi nghĩ tới anh dưới cái
tên đó.
Hắn chui vào trong chăn và thò tay ra tắt nến. Hắn nói:
- Ôi, tôi hài lòng vì việc đó đã giải quyết xong, anh Thomas ạ. Trước tôi
khổ sở quá, phát ốm vì nó được.
Rõ ràng là hắn đã hết ốm.
Khi nến tắt, tôi chỉ có thể nhìn đường nghiêng của mái tóc hắn nổi bật
lên trên ánh lửa đám cháy bên ngoài.
- Thôi, chào Thomas, chúc ngủ ngon.
Ðúng lúc hắn nói như vậy, ngay lập tức, y hệt sau câu đáp, người xem đã
biết trước trong một vở kịch tồi, tiếng súng cối bắt đầu ù ù, rít lên.
- Trời đất - Pyle nói - Một cuộc tấn công hay sao?
- Người ta tìm cách ngăn chặn một cuộc tấn công khác.
- Thế là hết một đêm ngủ rồi!
- Hết.
- Anh Thomas này, tôi muốn anh hiểu ý tôi về thái độ của anh trong việc này.
Anh thật là tuyệt vời, không có từ nào khác để nói về anh.
- Cám ơn.
- Anh có một thế giới quan mà tôi không có. Anh biết đấy, Boston đứng về
nhiều mặt mà xét, đã co hẹp lại. Dù anh chưa phải là một Lowen hay một
Cabot. Tôi mong anh sẽ cho tôi những lời khuyên bảo.
- Về vấn đề gì?
- Về Phượng.
- Nếu tôi là anh, tôi sẽ cảnh giác với những lời khuyên của tôi. Tôi có
thiên kiến. Tôi muốn giữ Phượng.
- ồ, nhưng tôi hiểu tính cương trực, cương trực tuyệt diệu của anh và cả
hai chúng ta đều một lòng lo đến lợi ích của Phượng.
Ðột nhiên, tôi không chịu nổi sự ấu trĩ của hắn.
- Tôi cóc lo đến lợi ích của cô ta - tôi nói - anh đi mà lo. Tất cả những
điều tôi muốn là cái thân xác của cô ta. Tôi muốn có cô ta trên giường
của tôi. Tôi muốn giày vò cho cô ta tan xác còn hơn là quan tâm đến lợi
ích chết tiệt của cô ta.
Hắn ồ lên một tiếng khẽ trong bóng tối.
- Nếu anh lo cho cô ta được sung sướng - tôi nói tiếp - lạy trời, anh hãy
để cô ta yêu. Như mọi đứa đàn bà khác, cái cô ta thích nhất là cái
con&
Một tiếng đạn súng cối nổ làm cho đôi tai người Boston của hắn khỏi phải
nghe cái chữ tục tĩu của người Anglo Saxon tôi đã dùng.
Nhưng ở Pyle có một cái gì đấy cứng nhắc. Hắn đã cho cách cư xử của tôi
là cao thượng, thì nhất định nó cứ phải cao thượng.
- Tôi hiểu là anh đau khổ đến chừng nào, anh Thomas ạ.
- Tôi không đau khổ.
- ồ có chứ, có chứ. Tôi biết tôi sẽ đau khổ ra sao nếu tôi phải lìa bỏ
Phượng.
- Nhưng tôi đã lìa bỏ Phượng đâu.
- Mặt vật chất cũng làm tôi quan tâm, anh Thomas ạ, nhưng tôi lìa bỏ những
ảo vọng về mặt đó để Phượng được sung sướng.
- Cô ấy đang có hạnh phúc đó chứ!
- Làm sao cô ấy hạnh phúc được trong hoàn cảnh này? Cô ấy cần có con.
- Anh thật sự tin ở những lời nói tầm phào của bà chị cô ta à?
- Một người chị đôi khi hiểu nhiều điều hơn.
- Mụ ta chăng một cái bẫy, Pyle ạ, chỉ bởi mụ tin rằng anh có nhiều tiền hơn
tôi. Và trời ơi, anh đã đâm đầu vào cái bẫy đó.
- Tôi chỉ có đồng lương thôi.
- Nhưng các anh được hưởng một giá hối đoái hời.
- Thôi, xin đừng chua chát làm gì, anh Thomas. Những điều đó thường xảy ra.
Nhưng anh là người cuối cùng mà tôi mong phải chịu đựng điều đó. Tiếng
súng cối này là tiếng súng của chúng ta à?
- Vâng, súng của "chúng ta". Anh nói như Phượng sắp bỏ tôi ấy.
- Tất nhiên - hắn nói mà không hề tin tưởng một chút nào - có thể cô sẽ
chọn ở lại với anh.
- Nếu vậy, anh sẽ làm gì?
- Tôi xin chuyển đi một nơi khác.
- Tại sao anh không xin đi ngay đi, anh Pyle, mà không gây ra những phiền hà
như vậy?
- Như vậy lại là không hành động một cách lương thiện với cô ta, anh Thomas
ạ - Pyle nói với một sự nghiêm trang rất lớn.
Tôi chưa từng gặp một người nào đã gây ra tất cả tai họa với tất cả một
thiện ý như Pyle.
- Tôi không tin - hắn nói tiếp - rằng anh đã hiểu rõ Phượng.
Vài tháng sau, một buổi sáng tỉnh dậy có Phượng nằm bên, tôi nghĩ:
"Còn anh, anh có hiểu Phượng không? Anh có lường tới tình huống này
không? Phượng sung sướng nằm bên tôi, còn anh thì chết tỏng rồi? "Thời
gian trả đũa nhưng các sự trả đũa thường mang vị chua cay: khôn ngoan hơn
cả tôi lẫn anh, là không nên tìm hiểu, mà chấp nhận rằng không có người
nào có thể hiểu được một người khác, dù là vợ chồng, dù là người yêu,
là bố mẹ, và con cái. Có lẽ vì thế mà con người đã nghĩ ra Thượng đế,
một nhân vật có thể hiểu những người khác. Nếu tôi muốn hiểu hay muốn
được người khác hiểu mình, có lẽ tôi sẽ làm được cái việc là tin có
Trời, nhưng tôi lại là phóng viên, chỉ có những nhà viết xã luận mới tin
có Trời mà thôi.
- Anh tin chắc rằng có nhiều điều dễ hiểu hay sao? - tôi hỏi Pyle - ồ, chán
nhỉ, uống Whisky. Mỗi khi súng nổ, tay hắn lại run lên, tuy vậy hắn đã làm
cuộc đi điên rồ từ Nam Ðịnh về đây.
- Lạ lùng thay - hắn nói - nhưng anh cũng như tôi, không ai chúc được người
kia hai chữ "may mắn".
(Còn tiếp)